Làng Vạn nằm ngay cửa một con sông lớn, nước sông ngày đêm mênh mang
xuôi ra biển. Thương thuyền thuận đường ghé lại buôn bán tấp nập. Làng trở nên
sầm uất. Đất lành chim đậu. Dân từ nơi khác ngụ cư ngày thêm đông. Bà Kham
cũng có trong số ấy. Hồi còn trẻ, bà theo phường buôn tới làng tìm kế sinh nhai.
May mắn gặp được ông Tự. Bấy giờ, ông thuộc hàng giàu có, danh giá nhất vùng. Đi qua cổng chợ, thấy người thiếu phụ một nách con thơ hỏi tìm việc làm. Cám cảnh, ông dừng lại hỏi han rồi cho về nhà tá túc, hầu hạ vợ. Lúc này, người vợ đang có mang. Đến kì khai hoa nở nhụy, vợ ông sinh một bé gái đặt tên là Ý Hoa. Ông Tự một bề con trai, giờ có con gái nên vui mừng khôn xiết.
Thấm thoát đã năm năm. Một buổi trưa, ông nằm nghỉ trên tấm phản gụ đen
trong thư phòng, chợt người quản gia thân tín vào mách chuyện về bà Kham. Hắn
thấy bà trò chuyện thân mật với một người trong đám phường buôn vừa xuống
thuyền. Chờ bà đi rồi, hắn làm quen dò hỏi người phường buôn kia và được biết
người ấy với bà vốn cùng quê. Trước kia vì nhẹ dạ, cả tin, bà trót có mang với một
kép hát. Gã kép một lần diễn tuồng buông lời phạm tới triều đình nên bị khép tội
tử. Bị gia đình ruồng bỏ, họ hàng, xóm làng khinh bỉ, bà phải bỏ xứ mà đi. Ông Tự
nói:
– Câu Xướng ca vô loài người xưa dạy rành rành ra đó. Bởi dây vào đám đào
kép chỉ chuốc lấy phiền hà. Vậy mà lắm kẻ cứ mê đắm như con thiêu thân.
– Bây giờ ông tính sao? Người quản gia hỏi.
– Đúng là không thể tha thứ cho những chuyện bại hoại gia phong. Nhưng
chuyện hư hỏng kia không xảy ra ở nhà ta. Hơn nữa, thời gian qua, Kham đã giúp
nhiều cho vợ ta, chăm sóc chu đáo con gái ta, tính lại đôn hậu, thật thà. Khó tìm
được một gia nhân như thế. Thôi, ông hãy giữ kín chuyện, coi như chưa từng biết.
Tuy miệng nói vậy nhưng từ đó ông Tự có ấn tượng không tốt với bà Kham,
cách cư xử có phần khác trước. Bà Kham thấy lạ nhưng không dám hỏi, vẫn một
lòng một dạ làm tròn phận sự với chủ. Bà còn vất vả lo cho Nguyên Đình ăn học.
Nguyên Đình học một biết mười rất vừa ý bà. Đến tuổi trưởng thành, Nguyên Đình
đã là chàng trai dung mạo tuấn tú, tài học nổi tiếng cả vùng.
*
* *
Bấy giờ, ở làng Vạn, vào những đêm trăng đẹp, dân làng thường tổ chức hát hò
hát đối trên sông. Thuyền bơi nhẹ trên mặt nước lung linh, hai bên nam nữ hát đối
đáp làm xao động cả không gian thơ mộng. Nguyên Đình là người lĩnh xướng bên
nam. Chàng có giọng hát trời phú. Mỗi khi tiếng hát cất lên, bao trái tim thiếu nữ
thổn thức. Chàng còn biệt tài thổi sáo. Tiếng sáo luyến láy, êm ngọt say lòng.
Ý Hoa đã trở thành thiếu nữ nhan sắc mặn mà. Trong những đêm hội, nàng
thường hát giao duyên với Nguyên Đình. Lời ca, tiếng hát đưa đẩy, ý tình nồng
thắm, rung động, bâng khuâng. Dần dần, nàng nhận ra, mỗi khi gần Nguyên Đình,
một thứ tình cảm khác lạ làm nồng ấm cõi lòng. Đêm đêm, một mình trong khuê
phòng, nàng thao thức, nhớ nhung… Mỗi khi ông Tự đi vắng, nàng cùng Nguyên
Đình ra hoa viên phía sau nhà, ngồi trên ghế đá nghe chàng thổi sáo. Nàng gối đầu
vào vai chàng, mặc cho sương lạnh thấm áo.
Ông Tự rước thầy về dạy con kinh sử, cầm, kì, thi, họa. Sợ Ý Hoa đa cảm lụy tình,
ông cấm nàng tham gia các đêm hát hò và căn dặn người nhà luôn để mắt tới. Suốt
ngày, Ý Hoa chỉ quanh quẩn trong khuê phòng. Những đêm hát, nàng thức đến
khuya, ngồi rầu rầu bên cửa sổ, vén rèm nhìn con đường hun hút dẫn ra bến sông,
cho tới lúc Nguyên Đình từ đó về, bước qua khoảng sân rộng rồi khuất dần ở cuối
vườn, nơi dãy phòng dành cho gia nhân. Nàng càng thêm u uất…
Rồi nàng lâm bệnh, không màng ăn uống, thuốc thang không khỏi. Ông Tự hết sức
lo lắng, đứng ngồi không yên. Một đêm, nàng đang thiêm thiếp, bỗng có tiếng sáo
ngoài vườn vọng vào. Tiếng sáo thủ thỉ bên tai. Nàng tỉnh giấc, mắt hé mở, miệng
thều thào: “Nguyên Đình!… Chàng ơi!…”. Nghe lời ấy, mắt ông Tự tối sầm lại.
Ông hầm hầm xô cửa đi ra ngoài, tới thư phòng. Vừa thấy hai mẹ con bà Kham,
ông quát:
– Mẹ con mày không biết thân phận. Sao lại gieo oan nghiệt cho nhà tao?
Bà Kham không hiểu đầu đuôi thế nào, lo sợ thưa:
– Xin thương tình soi xét. Ngày ấy, bước chân lưu lạc, không chỗ tựa nương, được
ân nhân cưu mang, ơn sâu như biển, nghĩa nặng bằng non. Mẹ con tôi chưa có gì
báo đáp, lòng luôn áy náy, sao dám làm chuyện bất nhân bất nghĩa.
Ông Tự giận phừng phừng:
– Thằng con mày đã dùng ngón nghề ca hát mê hoặc con gái tao. Giờ con tao mê
muội như bị ma ám. Cái ơn muốn trả là vậy à?
Bà Kham ngạc nhiên, ấp úng:
– Có chuyện như vậy sao?
Ông Tự gằn giọng:
– Hỏi thằng con mày đây này! Thật là nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà. Không
lôi thôi gì nữa, ra khỏi nhà tao ngay!
Ông chỉ thẳng vào mặt Nguyên Đình:
– Còn mày, tránh xa con gái tao ra. Nếu còn léng phéng thì đừng trách tao đó.
Nguyên Đình chỉ biết cúi đầu im lặng. Bà Kham biết tính ông Tự rất cố chấp, đã
quyết thì có van nài nữa cũng vô ích. Bà nghẹn ngào:
– Lòng tôi chỉ có trời xanh mới thấu. Kiếp này không báo ơn được thì kiếp sau xin
làm thân trâu ngựa đền đáp. Nay ông không dung thì xin nhận một lạy trước khi từ
biệt.
Dứt lời, bà Kham kéo Nguyên Đình quỳ sụp xuống nhưng ông Tự mặt vẫn không
biến sắc. Vừa lúc, người nhà tới báo Ý Hoa lại mê man, ông quát lớn:
– Cho nó chết! Ta thà mất nó chứ nhất định không gả cho phường xướng ca vô luân
để làm điếm nhục gia phong.
Ngay trong đêm, hai mẹ con đành phải thu dọn ít đồ đạc dắt díu ra đi. Biết đi đâu
bây giờ? Màn đêm mù mịt, lất phất mưa bay. Hai mẹ con ghé vào ngồi co ro dưới
mái đình cho tới sáng…
Ít hôm sau, dân làng thương tình kẻ góp công, người góp của dựng ngôi nhà nhỏ
vách đất, mái tranh trên mỏm đất cuối làng cho hai mẹ con nương náu. Bà Kham
lặn lội bươn chải kiếm tiền lo việc học của con. Ai thuê mướn việc gì cũng làm,
cực nhọc mấy cũng chịu. Cuộc sống cũng tạm đắp đổi qua ngày.
Tin vua mở khoa thi về tới làng Vạn làm bà Kham hết sức lo lắng. Lấy đâu ra lộ
phí cho Nguyên Đình ứng thí. Thấy mẹ lo âu, Nguyên Đình hết sức đau lòng.
Chàng muốn đi làm phụ giúp đỡ đần cho mẹ, song bà Kham nhất mực không chịu:
– Khổ mấy mẹ cũng chấp nhận, con phải cố sức học để có ngày bia đá bảng vàng.
Có vậy mẹ con ta mới thoát khỏi cảnh đời đắng cay, tủi nhục.
Từ lúc ra khỏi nhà ông Tự, Nguyên Đình không nguôi nhớ Ý Hoa. Nhớ ánh mắt
nồng nàn, nụ cười e ấp, lời hát trao duyên nồng thắm. Nhớ giây phút kề cận, thổi
sáo cho nàng nghe dưới trăng. Rồi lời thề hẹn đến trăm năm… Xa Ý Hoa, Nguyên
Đình mới thấm thía hết nỗi đơn côi…
Chiều hôm đó, chàng ngồi đọc sách. Chợt có tiếng gọi cửa. Ý Hoa! Nguyên Đình
sững sờ. Nàng đi vào nhẹ như gió thoảng. Mắt Ý Hoa rớm lệ. Nguyên Đình dìu
nàng lại ghế ngồi. Ý Hoa nói:
– Khó khăn lắm em mới đến được đây. Xin chàng tha thứ. Chỉ vì em mà chàng và
thân mẫu phải khổ sở thế này.
– Nàng không có lỗi. Người có lỗi phải là ta. Lúc nàng lâm bệnh, ta không thể lui
tới sớm hôm chăm sóc.
Ý Hoa chậm rãi lấy trong tay áo ra cái gói nhỏ đặt lên bàn:
– Em không ở lâu được. Đây là chút tư trang bấy lâu em dành dụm, mong chàng
nhận làm lộ phí. Mai sau lập được công danh, đừng quên Ý Hoa.
Nguyên Đình xúc động:
– Ta sẽ xứng đáng với tình yêu của nàng. Hãy đợi đến ngày ta trở về.
*
* *
Tin Nguyên Đình đỗ tiến sĩ khoa Giáp Thân (1884) làm xôn xao làng Vạn. Hội
đồng kì mục ra đình họp bàn về sự việc trọng đại này. Viên thư lại ở dinh quan
huyện về báo tin, hồ hởi kể vanh vách như được chứng kiến: Nguyên Đình được
vua Kiến Phúc ban thưởng áo mũ, dự yến tiệc linh đình ở dinh bộ Lễ, thưởng thức
ca Huế và vào vườn ngự uyển ngắm các loài kì hoa dị thảo; vị tân khoa còn được
cưỡi ngựa có lọng che diễu qua các phố xá kinh kì. Các vị chức sắc, chức dịch ngồi
nghe mà lòng hả hê. Cụ tiên chỉ rung rung chòm râu bạc:
– Cả hàng huyện từ xưa tới nay mới có được người đỗ đại khoa. Nguyên Đình đã
làm mở mày mở mặt làng ta.
Cụ bảo lí dịch chuẩn bị đồ nghi trượng sự thần chờ ngày rước ông Nghè vinh quy
bái tổ. Ngôi nhà nhỏ lụp xụp vách đất mái tranh của Nguyên Đình rộn rã niềm vui.
Bà Kham, thân mẫu vị tân khoa ân cần tiếp người làng đến chúc mừng, tiếng cười
nói không ngớt…
Riêng nhà ông Tự vẫn im lìm. Ông đột ngột phát bệnh nặng. Phút lâm chung, ông
gọi Ý Hoa tới căn dặn: “Dòng xướng ca thì dù có công thành danh toại vẫn là
xướng ca. Ta nhất định không cho nó làm rể. Con phải nhớ lời ta đó”. Tim Ý Hoa
nhói buốt, cõi lòng tan nát. Ý Hoa chưa lúc nào làm trái ý cha. Lo việc ma chay
xong, nàng thưa với mẹ:
– Con gái bất hiếu không phụng dưỡng mẹ đến trăm tuổi. Cõi trần đầy phiền lụy,
khổ đau, con xin đến chùa nương nhờ cửa Phật.
Nàng ngả vào lòng mẹ khóc thảm thiết. Mọi người xúm vào khuyên giải nhưng
không lay chuyển. Ở chùa, Ý Hoa ngày đêm thành tâm kinh kệ. Nhưng một đêm
nọ, người nàng bồn chồn, trằn trọc không sao chợp mắt… Nỗi nhớ thương hờn tủi
bỗng quặn trào tê tím cả người. “Giờ này chàng ở đâu? Nơi xa xôi có thấu tỏ hoàn
cảnh tội nghiệp của em không? Có biết em đơn độc, khô héo trong tuyệt vọng
không? Em phải làm sao đây?”. Chợt nhớ lời trăng trối của cha, những thành kiến
khắc nghiệt chia lìa đôi lứa, nàng càng thêm tủi phận…
Sáng hôm sau, thấy nàng bơ phờ, mắt thâm quầng, sư thầy gạn hỏi. Nàng thành
thật kể hết rồi xin được xuống tóc, quyết dứt tình riêng. Sư thầy không cho, bèn lựa
lời khuyên giải:
– Con chưa dứt được sợi dây nghiệp chướng. Thân ở cửa thiền mà lòng chưa tắt lửa
trần. E rằng kiếp này con không có duyên với Phật.
Nàng vẫn nằng nặc đòi quy y tam bảo. Sư thầy đành phải hứa:
– Con hãy chờ cõi lòng thanh thản, vơi bớt sầu bi. Chừng ấy, nếu không đổi ý, ta sẽ
chuẩn y cho.
*
* *
Đăng khoa đã hơn một năm, Nguyên Đình vẫn bặt vô âm tín. Bà Kham lo lắng,
đứng ngồi không yên. Bà lân la tới các phủ huyện dò hỏi nhưng vẫn không có tin
tức. Một ngày cuối hè, lúc xâm xẩm tối, Nguyên Đình đột ngột trở về. Vị tiến sĩ
tân khoa đi lầm lũi một mình, không áo mũ cân đai, không ngựa xe cờ quạt, trông
bộ dạng như vừa trải qua cuộc hành trình nhọc nhằn. Bà Kham mừng khôn xiết kể.
Nguyên Đình kể chuyện xảy ra ở kinh. Giặc Phú Lang Sa ngang ngược lộng hành.
Người người căm phẫn. Những đấng trung lương ngày đêm bàn kế đánh đuổi
chúng. Chàng ở lại kinh dự vào việc báo quốc. Công việc khẩn cấp, nguy hiểm,
không dứt ra được. Mấy lần chàng định thu xếp về một chuyến nhưng không thể
thực hiện. Lần này chàng về ngoài việc riêng còn có trọng trách vua giao. Giọng
Nguyên Đình rưng rưng:
– Con biết mẹ ngày đợi đêm mong. Mẹ đã khổ một đời vì con vậy mà con chưa báo
đáp được cho mẹ dù chỉ một ngày. Nay trung hiếu không vẹn đôi đường. Con phải
ra đi để mẹ già ngày đêm một mình. Lòng con đau xót muôn phần! Trăm ngàn lạy
xin mẹ tha tội bất hiếu cho con!
Nghe Nguyên Đình nói, nét mặt bà Kham đăm chiêu:
– Mẹ đã mất cha con. Lẽ nào giờ đây lại mất con nữa sao?
Nguyên Đình quỳ xuống gục đầu vào gối mẹ, nước mắt giàn giụa, không thốt nên
lời. Bà Kham ngồi bất động. Những nếp nhăn trên trán như hằn sâu thêm… Lát
sau, bà Kham bình tĩnh trở lại, dịu dàng nhìn Nguyên Đình:
– Thôi, con cứ đi mà làm phận sự của mình, đừng lo gì cho mẹ. Cầu trời phù hộ
cho con được bình yên, để mẹ con ta có ngày được trùng phùng.
Chàng ôm lấy mẹ:
– Mẹ ơi! Mẹ của con!…
*
* *
Được tin báo có chiếu chỉ của vua, tối hôm sau, các vị chức sắc, chức dịch làng
Vạn và ở các vùng lân cận lục tục kéo tới đình. Họ đứng xúm xít trên khoảng sân
rộng phía trước. Dưới ánh nến bập bùng, Nguyên Đình nhìn khắp một lượt. Chàng
nói:
– Giặc Phú Lang Sa đã chiếm kinh thành. Nhà vua xuất bôn ra chiếu Cần Vương
kêu gọi thân hào nhân sĩ đồng tâm hiệp lực đem tài sức lo việc cứu nước. Ta nhóm
họp các ông cũng vì lẽ đó.
Chàng lấy tờ chiếu đọc cho tất cả nghe. Cụ tiên chỉ làng Vạn ôn tồn bảo:
– Nay đã có chiếu của nhà vua, chúng ta phải đồng lòng hành sự. Việc này rất hệ
trọng, phải tính kĩ mới được.
Mọi người dự họp cùng nhau bàn bạc đến tận khuya. Kế hoạch hành động đã thống
nhất. Trước hết là đưa Nguyên Đình lên ẩn náu trên chùa để tránh tai mắt quan lại
sở tại. Sư thầy là chỗ tin cậy.
Ở chùa, Nguyên Đình ẩn mình ở tịnh thất phía sau. Chàng đã biết việc xảy ra ở nhà
ông Tự và Ý Hoa hiện đang ở chùa nhưng không có cách nào gặp được. Mấy ngày
ngắn ngủi qua nhanh. Chỉ còn một đêm cuối cùng, vì cuối canh ba, chàng phải lên
đường. Đêm ấy, trăng lừng lững treo trên bầu trời làng Vạn. Những làn mây như
những dải lụa mềm đan quyện vào nhau mơn man đắm đuối. Nguyên Đình bồi hồi
trước khoảnh khắc giao hoan diệu kì của tạo vật. Chàng đi trên con đường đẫm
trăng ra sau chùa. Gió nồm từ biển thổi vào lồng lộng, mát rượi. Dừng lại trước cái
ao rộng, nhìn đăm đắm mặt nước lao xao gợn sóng, lòng chàng ngổn ngang tâm sự:
“Ý Hoa ơi! Ta về làng Vạn còn vì lời hẹn ước hôm nào. Sao nàng không chờ ta?
Làm sao được cùng nàng đi đến hết cuộc đời như lời thề ước năm xưa? Nay nước
nhà nguy biến, kẻ thù đương mạnh còn ta lực mỏng thế yếu. Nhưng ta quyết sống
chết với chúng để báo đền ơn vua. Bởi vậy, lần ra đi này, biết còn được trở về gặp
nàng nữa không?”. Thẫn thờ, chàng rút ống sáo say sưa thả hồn như quên hết mọi
thứ xung quanh. Trong không gian thanh vắng, nỗi nhớ thương rưng rức miên man
theo những giai điệu dặt dìu…
Ý Hoa lại thêm một đêm khó ngủ. Lúc nàng đang trằn trọc mơ màng với bao ý
nghĩ rối bời, chợt nghe tiếng sáo vẳng đến. Những cung bậc quyến rũ chạm vào trái
tim run rẩy tội nghiệp của nàng. Ý Hoa thảng thốt: “Chàng đã trở về!”. Tiếng sáo
ảo diệu đưa nàng về với bao nhiêu kỉ niệm lưu luyến, buồn thương, nhớ tiếc, ngậm
ngùi… Thương nhớ càng lúc càng dâng trào, nàng vùng dậy đi ra ngoài vô thức đi
theo tiếng sáo dẫn dụ. Tiếng sáo nhỏ dần rồi tan biến trên mặt ao loang loáng ánh
vàng. Chàng kia rồi! Tim nàng reo lên những tiếng thổn thức. Nàng đứng lặng phía
sau, nước mắt chảy dài trên má nhuốm trăng lấp lánh. Bất ngờ Nguyên Đình quay
lại. Chàng ngỡ ngàng như không tin vào mắt mình: “Nàng đấy sao?”. Ý Hoa nghẹn
ngào: “Là em đây!”. Mắt chàng thật lạ. Loang loáng trăng. Loang loáng yêu
thương nhung nhớ, nhập vào ánh mắt nàng làm một. Giây phút ấy, Ý Hoa nhận ra,
mất chàng cuộc sống không còn ý nghĩa gì nữa. Nỗi đau khổ giày vò bấy lâu bỗng
trở nên nhạt mờ… Như bị cuốn hút đến ranh giới cuối cùng, thoáng ngập ngừng…
nàng ôm chầm lấy Nguyên Đình…
Sau lần gặp ấy, Nguyên Đình cùng các bậc sĩ phu lập căn cứ đánh Tây hoạt động
khắp các tỉnh Trung kỳ và mất trong một trận giao tranh với giặc. Ý Hoa bị bắt rồi
quyên sinh trong ngục. Vua Đồng Khánh hạ lệnh tước hết văn bằng tiến sĩ và phẩm
hàm của Nguyên Đình.
*
* *
Không lâu sau, một phụ nữ ăn mặc lam lũ bế một bé trai vào làng Vạn hỏi thăm,
lần tìm đến nhà bà Kham. Không biết người phụ nữ ấy nói gì mà gương mặt quắt
đi của bà Kham bỗng long lanh giọt lệ. Bà Kham lại cặm cụi, làm lụng nuôi đứa
bé.
Đứa bé ấy, chính là giọt máu còn lại của hai con người đã vượt lên mọi nghiệt ngã
của cuộc đời để được mãi mãi bên nhau.